
Mấy hôm nay loay hoay làm báo cáo về đề tài Proxy Server sử dụng Squid. Nghiên cứu về các mô hình ứng dụng và các giao thức được sử dụng. Công việc cũng sắp xong rồi, tuy nhiên thấy hơi hơi .. ngắn. Thôi kệ, chỉ là giới thiệu thôi mà :) . Bài viết về Web Caching trên Wikipedia
Web caching là việc lưu trữ bản sao của những tài liệu web sao cho gần với người dùng, cả về mặt chức năng trong web client hoặc những web caching servers riêng biệt.
Web caching là ứng dụng ở cấp độ routing, và phần lớn băng thông dùng cho web toàn bộ đường truyền có thể ảnh hưởng đến băng thông của hệ thống mạng (theo tín toán của UNINETT thì 50% băng thông dùng trong hệ thống mạng là dùng cho web)
ISPs – Những nhà cung cấp dịch vụ - thường thiết lập sẳn hệ thống kết nối ngang hàng với các ISPs khác trong cùng quốc gia (cấp độ quốc nội) hoặc ở các nước khác (cấp độ quốc tế). Web caching ảnh hưởng mạnh đến băng thông trên mạng. Các ISPs có thể tiết kiệm chi phí từ việc đưa ra những thỏa thuận với các ISP khác trên web caching, từ đó có thể theo sự thỏa thuận được thiết lập trên hệ thống ngang hàng và thay đổi đường truyền. Những chính sách trong quá trình hổ trợ điều khiển web caching phải được phổ biến.
có 3 loại web cache chính
Browser Cache
Nếu chúng ta khảo sát những chọn lựa ưa thích trong bất kỳ một Web browser hiện đạI (như I.E, Safari hay Moziila), nhiều khả năng bạn sẽ chọn thiết lập “cache”. Nó cho phép bạn đặt riêng một phần ổ đĩa cứng trên máy tính của bạn để lưu trữ những gì mà bạn đã xem. Browser cache làm việc theo một quy luật đơn giản. nó sẽ kiểm tra những gì bạn đã xem đươc cập nhật hay chưa, thường là một phiên thông tin.
Cache này đặc biệt có ích khi ngườI dùng nhấn vào nút Back hoặc nhấn vào một liên kết đến 1 trang mà họ vừa mớI xem. Ngoài ra, nếu bạn sử dụng cùng các hình ảnh liên kết trong suốt một site, gần như ngay lập tức người dùng sẽ được đáp ứng từ caches của browser.
Proxy Cache
Web proxy cache làm việc cùng nguyên tắc với browser cache, nhưng ở phương diện rộng lớn hơn. Proxies đáp ứng hàng trăm hoặc hàng ngàn users cùng một cách thức; những tập đoàn lớn và IPS thường thiết lập chúng trên các firewalls, hoặc như một thiết bị độc lập (thường hiểu như là những phương tiện trung gian).
Bởi vì proxy cache không phải là một phần của client hay server chính, nhưng thay vì ra ngoài hệ thống mạng thì bằng cách này hay cách khác những yêu cầu phải được chuyển cho chúng. Một cách để thực hiện việc đó là sử dụng thiết lập proxy của browser để cho browser biết cần phải sử dụng proxy nào, hoặc sử dụng interception. Các interception proxies có các yêu cầu web chuyển đến cho chúng bởi chính hệ thống mạng, do đó clients không cần thiết phải cấu hình hoặc hiểu về nó.
Những proxy cache là một dạng của shared cache; nó không chỉ được sử dụng bởi một người, mà nó thường có một lượng lớn users, và bởi vì nó rất tốt cho việc giảm những nguy cơ tiềm ẩn và đường truyền mạng. Đó là lý do các thông tin lướt trên web tiết kiệm được nhiều thời gian.
Gateway Cache
Thường được biết đến như là “reverse proxy cache” hoặc “surrogate cache”, gateway cache thường là đóng vai trò trung gian, nhưng thay vì được triển khai bởi nhà quản trị mạng để tiết kiệm băng thông, nó còn được triễn khai bởi các Webmasters (nhà thiết kế, quản trị và bảo trì web site), để cho web site của họ có khả năng mở rộng, đáng tin cậy và tối ưu nhất.
Các yêu cầu có thể chuyển đến gateway caches bởi nhiều phương thức, nhưng điển hình một số tổ chức cân bằng tải được dùng để tạo ra một hay nhiều phương thức cho server đến các clients.
Content delivery networks (CDNs) distribute gateway caches thông qua internet (hoặc một phần của nó) và bán caching cho những web sites được yêu thích. Speedera và Akamai là những ví dụ của CDNs.
Web caching là việc lưu trữ bản sao của những tài liệu web sao cho gần với người dùng, cả về mặt chức năng trong web client hoặc những web caching servers riêng biệt.
Web caching là ứng dụng ở cấp độ routing, và phần lớn băng thông dùng cho web toàn bộ đường truyền có thể ảnh hưởng đến băng thông của hệ thống mạng (theo tín toán của UNINETT thì 50% băng thông dùng trong hệ thống mạng là dùng cho web)
ISPs – Những nhà cung cấp dịch vụ - thường thiết lập sẳn hệ thống kết nối ngang hàng với các ISPs khác trong cùng quốc gia (cấp độ quốc nội) hoặc ở các nước khác (cấp độ quốc tế). Web caching ảnh hưởng mạnh đến băng thông trên mạng. Các ISPs có thể tiết kiệm chi phí từ việc đưa ra những thỏa thuận với các ISP khác trên web caching, từ đó có thể theo sự thỏa thuận được thiết lập trên hệ thống ngang hàng và thay đổi đường truyền. Những chính sách trong quá trình hổ trợ điều khiển web caching phải được phổ biến.
có 3 loại web cache chính
Browser Cache
Nếu chúng ta khảo sát những chọn lựa ưa thích trong bất kỳ một Web browser hiện đạI (như I.E, Safari hay Moziila), nhiều khả năng bạn sẽ chọn thiết lập “cache”. Nó cho phép bạn đặt riêng một phần ổ đĩa cứng trên máy tính của bạn để lưu trữ những gì mà bạn đã xem. Browser cache làm việc theo một quy luật đơn giản. nó sẽ kiểm tra những gì bạn đã xem đươc cập nhật hay chưa, thường là một phiên thông tin.
Cache này đặc biệt có ích khi ngườI dùng nhấn vào nút Back hoặc nhấn vào một liên kết đến 1 trang mà họ vừa mớI xem. Ngoài ra, nếu bạn sử dụng cùng các hình ảnh liên kết trong suốt một site, gần như ngay lập tức người dùng sẽ được đáp ứng từ caches của browser.
Proxy Cache
Web proxy cache làm việc cùng nguyên tắc với browser cache, nhưng ở phương diện rộng lớn hơn. Proxies đáp ứng hàng trăm hoặc hàng ngàn users cùng một cách thức; những tập đoàn lớn và IPS thường thiết lập chúng trên các firewalls, hoặc như một thiết bị độc lập (thường hiểu như là những phương tiện trung gian).
Bởi vì proxy cache không phải là một phần của client hay server chính, nhưng thay vì ra ngoài hệ thống mạng thì bằng cách này hay cách khác những yêu cầu phải được chuyển cho chúng. Một cách để thực hiện việc đó là sử dụng thiết lập proxy của browser để cho browser biết cần phải sử dụng proxy nào, hoặc sử dụng interception. Các interception proxies có các yêu cầu web chuyển đến cho chúng bởi chính hệ thống mạng, do đó clients không cần thiết phải cấu hình hoặc hiểu về nó.
Những proxy cache là một dạng của shared cache; nó không chỉ được sử dụng bởi một người, mà nó thường có một lượng lớn users, và bởi vì nó rất tốt cho việc giảm những nguy cơ tiềm ẩn và đường truyền mạng. Đó là lý do các thông tin lướt trên web tiết kiệm được nhiều thời gian.
Gateway Cache
Thường được biết đến như là “reverse proxy cache” hoặc “surrogate cache”, gateway cache thường là đóng vai trò trung gian, nhưng thay vì được triển khai bởi nhà quản trị mạng để tiết kiệm băng thông, nó còn được triễn khai bởi các Webmasters (nhà thiết kế, quản trị và bảo trì web site), để cho web site của họ có khả năng mở rộng, đáng tin cậy và tối ưu nhất.
Các yêu cầu có thể chuyển đến gateway caches bởi nhiều phương thức, nhưng điển hình một số tổ chức cân bằng tải được dùng để tạo ra một hay nhiều phương thức cho server đến các clients.
Content delivery networks (CDNs) distribute gateway caches thông qua internet (hoặc một phần của nó) và bán caching cho những web sites được yêu thích. Speedera và Akamai là những ví dụ của CDNs.
0 Comments
Post a Comment